Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

Hồn làng qua những trang văn

*

Cái tuổi thơ ấy, tưởng chừng khi người ta lớn lên, nó sẽ qua đi chóng vánh, để mỗi người tiếp kiến hướng đến những chân mây mới tràn đầy khao khát và hy vọng, khiến không ít người ngỡ ngàng, tiếc nuối. Nhưng không, nó như một cái mầm sống mãnh liệt nằm ngủ yên tận đáy tâm thức, vượt mọi không gian và thời kì, chờ thời nó có thể bật dậy hiên ngang bước ra thế cuộc bất cứ lúc nào như một chứng nhân lịch sử. Dịch giả, nhà thơ Lê Bá Thự năm nay đã thuộc lớp người xưa nay hiếm cũng không phải là trường hợp ngoại lệ, khi ông vừa mới xuất bản cuốn Tôi và làng tôi (*), dưới dạng tản văn, như một khế ước văn hóa làng mà ông từng mang theo suốt hai phần ba thế kỷ.

Bìa cuốn sách Tôi và làng tôi.

Bìa cuốn sách Tôi và làng tôi.

Do thuộc tính đặc thù của công việc mà tôi đã được đọc một số tác phẩm viết về thời thơ bé của các cây bút khác nhau như Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Tuổi thơ lặng im của Duy Khán, Yêu và sống của Lê Vân, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh,... Và gần đây nhất là Tôi và làng tôi của Lê Bá Thự do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2018. Tuy mỗi người có cách viết khác nhau trong khi phá hoang những kỷ niệm thời thư từ của chính mình, nhưng có một điểm chung mà tôi lĩnh hội được qua những tác phẩm của họ, đấy là dù viết ở góc cạnh nào thì cũng là những tiếng nói chân thật tự đáy lòng về những ký ức tuổi thơ của chính mình, nên tôi cũng như đông đảo công chúng dễ dàng đón nhận.

Tôi và làng tôi gồm 30 mẫu chuyện mà nhà văn Lê Bá Thự đã kể ra trong 300 trang sách, bắt đầu từ chuyện Làng tôi , cái làng Nguyệt Lãng, xã Thiệu Lý, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa của ông và kết thúc là mẫu chuyện về ngôi trường chuyên cấp III Lam Sơn, nức tiếng không chỉ của riêng tỉnh Thanh Hóa, mà còn là của chung cả nước, trước khi ông bay xa đến với những chân mây mới lạ của quốc gia và quốc tế.

Vâng, cái làng Nguyệt Lãng ấy, với tôi không mấy xa lạ vì đã từng hỗ tương nhiều lần, trêu bàn tay khi tôi còn trong quân ngũ đứng chân tại ngã ba Chè, thuộc xã Thiệu Đô, nay thuộc thị trấn Vạn Hà của huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Những ký ức về cái làng Trăng sáng (Nguyệt Lãng) ấy của nhà văn Lê Bá Thự, bởi vậy cũng là một phần ký ức của tôi trong những năm tháng đầu tại quân ngũ, trước khi vào mặt trận Đường Chín - Nam Lào đánh Mỹ (1968). Dù là khác huyện, khác xã nhưng làng Nguyệt Lãng của nhà văn Lê Bá Thự không khác là bao so với làng Chát của tôi (nay là làng Đạt Tiến) ở xã Tế Nông (nay là xã Tế Tân), huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa cũng như cái làng Điền Trì của thần đồng Thơ Trần Đăng Khoa, vì chúng đều là những làng quê thuần nông ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nên khi đọc những điều tác giả viết ra tôi rất tâm đầu ý hợp, bởi vừa không quá xa lạ và khó khăn gì để tôi có thể hình dung ra một miền quê nghèo túng mà thơ mộng xưa, từng là nơi chôn rau, cắt rốn của chúng tôi, lại vừa sống dậy một cách mãnh liệt những ký ức tuổi thơ trong chúng tôi.

Chỉ cần đọc đoạn thi bang lai xe may này thôi, tôi cảm thấy chẳng thể không đọc những trang tiếp theo: Mẹ tôi kể: Vào lúc tinh sương sáng một tháng ngày Chạp năm Nhâm Ngọ, trời rét căm căm, trong ngôi nhà trống tuềnh trống toàng, che chắn sơ sài, bên bếp than rực hồng, tôi cất tiếng khóc oa oa chào đời. Mẹ tôi thở phào nhẹ nhõm, mừng hết chỗ nói, vì như thế có tức thị “mẹ tròn con vuông”. Mẹ tôi mừng còn vì một lẽ khác nữa, mẹ đã sinh đẻ một lần và lần đó không thành. Đã một lần sinh đẻ không thành, nên lần này mẹ tôi chỉ sợ “Ngài” lại về bắt mất đứa con của mình. Và để “bảo toàn tính mạng” cho tôi, sau nhiều đêm tính liệu, mẹ tôi đã quyết định lấy tên ông quét chợ Vạc (làng Vạc, xã Thiệu Đô hiện), một ngôi chợ cách làng tôi ba cây số, đặt tên cho tôi. Vì theo cách nghĩ của mẹ tôi, tên người quét chợ là cái tên xấu, người quét chợ là kẻ cùng đinh, nghèo rớt mùng tơi, khố rách áo ôm, không một tấc đất cắm dùi, thì “Ngài” hay ma quỷ chẳng thèm đụng đến hắn ta, chẳng thèm bắt hắn mà làm gì. (bây chừ nghĩ lại, tôi thấy có khi mẹ tôi có lý, vì tôi đã thuộc loại người “xưa nay hiếm” rồi còn gì). Và thế là tên của ông quét chợ Vạc ngày ấy, ông Thự, cũng là tên tôi, mang họ bố tôi thì họ tên tôi là Lê Bá Thự. (tr. 11- 12) .

Vậy là chỉ cần vài trăm chữ ngay những trang đầu cuốn sách, chúng ta đã phần nào mường tượng ra được quá trình vượt cạn của mẫu thân nhà văn Lê Bá Thự, cũng như trăm ngàn người đàn bà Việt Nam từ xa xưa đến bây giờ. Qua đó chúng ta càng hàm ơn, chia sẻ những tấm lòng cao quí, sự hy sinh âm thầm khôn cùng tận của người mẹ đối với con yêu của mình. Tình mẫu tử là quan hệ tình cảm nguyên sơ, mang căn cốt bản thể người nhất, nên nó đeo đẳng, day dứt ta trong suốt cả thế cục của mỗi người. Trên cõi đời này, mọi cái đều có thể thay đổi, riêng tình MẪU - TỬ là bất biến.

Rồi đến những chuyện “Quà dân công” của bố tôi, Làng kháng chiến và hòa bình lập lại hay là đi xem bộ phim Bạch Mao Nữ , một bộ phim bò ngẩn một đời tuổi thơ thời bấy giờ. Phim này, trong ký ức tôi còn có tên gọi khác là Bạch Mao tiên cô, một cái tên rất hợp với tâm lý phát triển của lứa tuổi mới lớn. Tôi bé hơn nhà văn Lê Bá Thự chừng dăm tuổi, nhưng vẫn còn được xem phim này khi đội chiếu bóng lưu động của huyện về chiếu ở căng bóng làng tôi. Nhiều bạn trẻ thời chúng tôi, khi nghe có đội chiếu bóng về làng cứ như một ngày hội lớn, dù là chiếu phim gì, những đứa trẻ chúng tôi cũng sẵn sàng bỏ cơm tối để đi xem. 7 giờ tối mới chiếu phim, nhưng từ 5 giờ chiều lũ chúng tôi đã ra trước xí phần chỗ ngồi gần màn hình để được xem cho rõ. Khi buổi chiếu chưa bắt đầu thì lân la quanh các chú xem lắp máy, treo căng màn ảnh, thử âm thanh,… tuốt luốt đều xúm lại trố mắt như xem vật thể lạ từ người dưng hành tinh mang tới. bởi thế những buổi chiếu bóng ở làng luôn là món ăn tinh thần hết sức xa xỉ, vì nó quí hiếm đến mức, mỗi năm chỉ được xem có một hoặc hai lần là cùng. Đấy là một thứ đói văn hóa do kinh tế chậm phát triển và chiến tranh gây nên, mà thời trai trẻ đời chúng tôi phải chịu đựng và chẳng thể nào được bù đắp.

Đến những chuyện nuôi lợn ỉ, lợn xề, chăn trâu, chuyện chấy rận, xay thóc, giã gạo, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, chuyện tắm mưa, hay mong mẹ về chợ, rồi những ngày học trường làng, trường huyện,… mà hồ hết những đứa trẻ sinh ra ở nông thôn trước đây hay những vùng quê nghèo túng hôm nay đều từng nếm trải, đã được nhà văn Lê Bá Thự mô tả hết sức tường tận với một văn phong giản dị, chân thật. thành ra đối với họ đọc Tôi và làng tôi như phần nào được sống lại những năm tháng tuổi thơ của mình, cái tuổi một đi không bao giờ trở lại.

Nhưng có lẽ điều đáng nói là ở chỗ nhà văn Lê Bá Thự chỉ kể về những chuyện mà không ít người cho rằng khổ lắm, biết rồi nói mãi, ấy vậy mà nó vẫn suýt chúng ta là vì sao? Đến đây tôi hoàn toàn đồng thuận và san sẻ với cách lý giải của thi sĩ Trần Đăng Khoa thay cho phần kết bài viết của mình, khi ông cho rằng: Lê Bá Thự cũng là một người gọi hồn cả tiếng dài hơi như thế. Nhưng anh không gọi hồn người mà gọi hồn làng. Và rồi nhờ tiếng gọi da diết của anh, những vẻ đẹp của làng quê, những hồn vía của làng quê xưa đã thấp thoáng trở về rồi lồng lộng hiện lên nguyên vẹn, sắc nét trong cuốn sách này. Không phải chỉ có làng Nguyệt Lãng của anh, mặc cả làng Điền Trì của tôi và còn rất nhiều làng quê khác trong dải đồng bằng Bắc Bộ cũng đã lấp ló về đây, xum vầy quần cư trong những trang sách này.

... Đây là một cuốn sách quý. Rất quý. Nó như một bảo tàng nho nhỏ, một bảo tồn riêng của Lê Bá Thự, lưu giữ những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê những năm 50, 60. Đó là bầu khí quyển trong veo. Bầu khí quyển nông dân mà ta ngỡ chỉ có thể tìm thấy ở nước Thiên Đàng… (bìa 4)

...................................

(*) Tôi và làng tôi. Lê Bá Thự. Nxb Hội Nhà văn, 2018

Đỗ Ngọc Yên

The Author

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Morbi eu sem ultrices, porttitor mi eu, euismod ante. Maecenas vitae velit dignissim velit rutrum gravida sit amet eget risus. Donec sit amet mollis nisi, nec commodo est.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét