Nhà ông Linh ở xóm Mai Long, xã xuân Lộc và một điều tình cờ đây là nơi ngày trước A4 đóng quân và nhà của ông Linh bây giờ chính là sở chỉ huy của đại đội…
Ông Linh được Yến Thanh gọi điện trước nên đã có ý chờ sẵn bên chiếc bàn tre mộc mạc với ấm nước chè xanh ủ nóng giỏ mây mà sáng nay trước khi đi chợ, bà Dung - Vợ ông đã om sẵn.
Nhà thơ Yến Thanh bên mộ liệt sĩ Hồ Thị Cúc.
Tôi thật bất thần khi biết bà Dung vợ ông Linh là Tiểu đội trưởng A5, bạn rất thân với chị Võ Thị Tần. Ông Linh kể: Điều đặc biệt là A4 có đến 3 cô tên là Xuân họ đang là tuổi Xuân và mùa Xuân cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Ngoài hai cô Xuân hy sinh còn có Xuân quê ở Đức Hòa hôm đó được phân công làm cấp dưỡng. Và lạ lắm, lại có ba cô tên các loại hoa: Hoa Hường và Hoa Cúc còn một cô tên là Hồng thì đang đi Quảng Bình lấy gỗ làm nắp hầm. Có lần ở cống 19, bom đánh trúng ngay tiểu đội 4 đang san đường. Đất vùi lấp mất 4 người là: Cúc, Xuân (Vĩnh Lộc), Hường và Nhỏ. Tuy bị ngất lịm nhưng cả 4 cô tỉnh dậy đều xin ở lại để san lấp hố bom. Sau trận đó ban chỉ huy đại đội không cho A4 lên mặt đường chiến đấu mà lui về tuyến sau làm thuê việc đỡ vất vả và an toàn hơn. Nhưng mấy ngày liên tục o Tần lại lên xin đại đội cho ra mặt đường và được bằng lòng cách ngày các o hy sinh 4 ngày. Chính sáng cái hôm định mệnh ấy thì o Xuân - Vĩnh Lộc đi phép. Ông Linh trầm mặc nhớ lại: Tôi đang còn ngồi bàn thảo công việc với o Tần thì Xuân ào vào với bộ mặt hớn hở. O Tần hỏi: Bố đã khỏi chưa em. Xuân tươi cười: Nhiều rồi chị ạ. Bố bảo em ở nhà vài hôm nữa nhưng em không chịu. Tuy chưa hết phép nhưng sốt ruột quá phải lên với chị em. Mà cũng thật lạ kỳ, mọi ngày đốn là làm ban đêm nhưng hôm đó đột xuất phải làm ban ngày. Tôi nói với Tần: Phải làm ban ngày cho kịp nhiệm vụ là lấp nốt hố bom mới. Sau đó đào lại hầm ven đồi vì tối nay có một đoàn khách đặc biệt đi qua trung tâm. Trưa đó chị Võ Thị Hợi bất thần xuất hiện. Mọi người ngạc nhiên: Sao lên sớm thế? Hợi đặt túi xách đầy những quà bánh, kê, đậu xanh, chuối chín lên thềm nhà: Quà của A ta đó, mẹ mình gửi lên. Đợt ấy Hợi xin về mấy ngày để gặp anh Sơn nhân tình của cô trong Nam ra nhưng đến phút cuối Sơn có lệnh đột xuất phải ở lại không về được. O Tần bảo: Hợi mới lên còn mệt, tắm rửa nghỉ ngơi để tiểu đội ra mặt đường tối nay về sẽ lên hoan. Nhưng Hợi nhất quyết xin đi. Tôi hỏi ông Linh: Thế chiều hôm đó khi ông giao nhiệm vụ cho A4 ông có nhớ các o mặc binh phục gì không? Ông Linh vẫn nhớ như in cái chốc lát đó khi đứng trước A4 đã chỉnh tề dụng cụ xếp hàng ngang: Nhớ chứ. Quên làm sao được. Hôm đó cả Tiểu đội đều đội nón cài vải dù ngụy trang. Chỉ riêng o Rạng đội mũ TNXP còn mới. O Rạng muốn làm duyên vì da Rạng không bắt nắng. O Cúc mặc áo TNXP nhuộm màu tím than. O Hường Sơn Ca (o hát rất hay cho nên được gọi là chim Sơn Ca) mặc toàn màu đen trông càng trổi nước da trắng ngần. O Võ Thị Hà trẻ nhất tiểu đội mặc quần âu đen, áo bà ba màu gụ chẽn lưng nom tươi và trẻ trung. Riêng o Nhỏ mặc khác vì có ý trung nhân lái xe xích ngoài mặt đường mà họ lát nữa sẽ đi qua nên o “diện” bộ áo quần TNXP còn mới với màu xanh cỏ úa mặn mòi. cả thảy đều đi dép cao su có quai hậu. O Tần vẫn còn cài chiếc huy hiệu TNXP trên ngực áo nhấp nhánh, bắt ánh nắng mặt trời.
Vừa lúc ấy chị Dung đi chợ về khi biết chúng tôi đang tìm hiểu về mười cô gái TNXP ở ngã ba Đồng Lộc thì chị lặng đi. Chị bảo: Thật tội, hôm đó A5 được phân công 5 người do tôi đảm nhiệm vác gỗ lát hầm đi qua chỗ A4. Tôi nhớ A4 lúc đó đang đào chiếc hầm hình chiếc thước thợ chữ L. Riêng o Cúc nhận đào một cái hố tròn cách đó không xa vì đất đồi đá cứng khó đào hơn. Tính Cúc thế, bao giờ cũng nhận việc khó nhất về mình. Tôi hỏi: Cúc ơi đào hố này làm gì? Cúc cười: Hố ni dành cho “Thủ trưởng” Tần chỉ huy. Tôi hỏi Tần: Ta nghĩ giải lao đây cho vui, hè! Nhưng Tần ngăn lại: Hầm đào chưa xong, các o ra gần cửa cống kia mà nghỉ an toàn hơn. Khi chúng tôi tới gần cái cống thì bỗng nhiên máy bay phản lực Mỹ xộc tới. Rồi tốp F4 bất ngờ từ phía sau núi Mũi Mác ập tới cắt bom. Một quả bom đen trũi như mũi tên lao thắng xuống chỗ A4 nơi cả Tiểu đội đang nấp trong chiếc hầm đào còn chưa có nắp. Ông Nguyễn Thế Linh tiếp lời kể của chị Dung: Lúc đó tôi đang ở trên đài quan sát thấy bom rơi đúng vào chỗ A4 đang làm, tôi lặng người đi và bất chấp máy bay địch còn lẩn quẩn trên đầu, bất chấp bãi bom từ trường, khi đó tôi tháo bỏ hết những quân trang có dính đến kim khí kể cả dây lưng, chạy ào xuống đến nơi thì chỉ thấy bụi đất đỏ và khói bom mù mịt. tịnh vô không thấy người nào, chỉ có một chiếc nón rách mướp nằm bơ vơ trên đường 15. Tôi nói với mọi người vừa chạy đến: Ta đào bới thật nhanh vào, hoạ may còn sống ai chăng. Hãy đào cẩn thận kẻo lỡ cuốc vào chị em. Đến lúc trời nhá nhem tối vẫn chưa gặp dấu vết nào. Bỗng nghe “cốc” một tiếng, cuốc va phải đòn cáng tải thương. Bới ra thì tìm thấy cửa hầm, lộ một mái tóc đen của Võ Thị Tần vẫn ngồi ở phong thái nhìn tàu bay, một tay vịn vào vách hầm, một tay chống vào đầu gối người như rướn lên muốn chở che cả Tiểu đội phía sau lưng mình. Chúng tôi vội đưa Tần lên, thuộc cấp o vẫn còn nóng nhưng tim thì ngừng đập hẳn và mặt tím ngắt. Tôi còn nhớ trên mái tóc o Xuân ở Vĩnh Lộc còn cài chiếc bì thư thư màu hồng. Đó là lá thư của ý trung nhân gửi mà o vừa nhận được trước khi ra mặt đường. Có o đôi mắt vẫn còn mở to ngờ ngạc như không biết việc gì mới xảy ra, khi tôi lại gần vuốt mắt o thì hai dòng máu nhỏ từ mũi ứa ra thật xót xa... Nửa đêm hôm đó, chúng tôi điện ra cho đồng chí Trần Quang Đạt - Trưởng ban đảm bảo liên lạc tỉnh báo tin mười cô gái A4 đã hy sinh, riêng o Cúc chưa tìm thấy. Ông hỏi tôi, giọng chùng xuống: Anh xem đã đủ 10 cỗ cỗ áo chưa. Tôi lúng túng: Dạ chưa đủ anh ạ! Ông nghiêm giọng nói rõ từng tiếng: Phải cho người ra nhanh thị trấn Can Lộc lấy cho đủ thùng về tổ chức táng trang trọng.
Và ngay ngày hôm sau chúng tôi đã phải thành lập ngay A4 mới có o Hồng lính cũ trong tiểu đội làm A phó. Đứng trước hàng quân mới thành lập, tôi nói:
- chẳng thể để giặc Mỹ xóa sổ A4 đi được. A4 là niềm kiêu hãnh của chúng ta, nên tôi đề nghị các đồng chí biến đau thương thành sức mạnh, phát huy vai trò để phấn đấu A4 luôn giữ được danh hiệu đơn vị của mình!
Khi tôi đang hỏi chuyện ông Nguyễn Thế Linh về o Cúc thì ông Linh chỉ sang Yến Thanh: Chú cứ hỏi ông này vì có liên can đến bài thơ gọi hồn “ Cúc ơi ” mới tìm ra được o Cúc sau đó vài ngày. Thì ra Yến Thanh đang lặng lẽ nắn nót chép tặng tôi bài thơ “ Cúc ơi ” vì biết tôi là tác giả trường ca “ Ngã ba Đồng Lộc” .
Cầm bản thảo bài thơ “ Cúc ơi ” của Yến Thanh vừa chép tặng, tôi ngạc nhiên kêu lên: Chữ anh đẹp quá, vừa bay bổng vừa mềm mại. Yến Thanh “khoe” dạo đó anh hay được các nữ TNXP nhờ viết chữ lên gối, lên khăn tay để họ thêu tặng nhân tình. Ông Linh kể: Chiều ngày 25/7/1968 Ty giao thông chuyển vận Hà Tĩnh điện cho Uông Xuân Lý đem máy ủi ra đào. Chi bộ đại đội 552 họp đột xuất cho ra nghị quyết: nối đào bằng tay cho đến khi tìm được thi hài đảng viên Hồ Thị Cúc. nên Yến Thanh mới có câu thơ: “ Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc - Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần - Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng ”. Tại nhà ban chỉ huy C552 gần nơi mà chúng tôi đang ngồi trò chuyện, chiếc hòm rốt cuộc được chuyển ra vườn tro chờ thi hài Hồ Thị Cúc. Cảm xúc dâng trào trong lòng Yến Thanh khi hình ảnh o Cúc hiện ra với tuổi ấu thơ khá nhọc nhằn vất vả. Trong ký ức của Yến Thanh o Cúc tóc loe xoe vàng xoăn tít như đuôi bò, mặt luôn ưu tư buồn buồn nhìn xuống, nên chi Cúc có biệt danh là “Cúc mục”. Thế là mạch thơ ùa ra không cầm nổi nước mắt, ông viết với giọng tâm tình tự sự và rốt cuộc là tiếng nấc: Cúc ơi! Như tiếng gọi hồn. Lần đầu ông đặt tên cho bài thơ “ Hồn hổ hang ở đâu ”. Rồi lại xóa bởi nghe láng máng như Nguyễn Bính khóc cô hàng xứ. Còn ông, ông đang khóc người bạn nữ anh hùng và ông viết lại tên bài thơ “ Cúc ơi ”. Trưa hôm sau mới tìm được o Cúc ở cái hầm tròn. Đầu Cúc còn đội cái nón bị bẹp dí, vai còn tựa cái cuốc. tử thi vẹn nguyên nhưng tím bầm. Hai bàn tay đầy máu khô. có nhẽ trong lúc bị vùi lấp, Cúc đã cố dùng tay bới đất nhưng vô vọng. Trưa tìm được xác của Cúc, trời tháng 7 ở Đồng Lộc nóng rát, gió Lào thổi khô rang, nên thây o bị phình to ra không bỏ lọt vào cỗ áo. Một cảnh huống thật khó khăn đặt ra tưởng như bó tay vì không có một cỗ hòm nào đặc biệt có chiều rộng như thế. May thay ở trong xóm có một ông cụ dày dạn kinh nghiệm trong việc an táng người chết trôi. Cụ lấy hai chiếc đũa bếp (đũa cả) cho người đặt thi thể của o Cúc lên mặt hòm. Mình cụ vừa khấn nguyện rì rầm vừa khéo dùng hai chiếc “Đũa thần” ấy ấn dần và thật ngạc nhiên tử thi của o Cúc đã nằm vừa vặn trong cỗ cỗ áo!
Chúng tôi cũng ra ngã ba, rất nhiều công trình đang gấp rút hoàn tất để kỷ niệm 50 năm thắng lợi Đồng Lộc. Tôi và ông Nguyễn Thế Linh cùng chụp chung một tấm ảnh ở đồi Trọ Voi ngút ngàn hoa sim nở. Trước khi chia tay, tôi hỏi ông: Từ ngày các cô mất ông có gặp lại các cô về trong mơ báo mộng cho mình không? Ông nói: độc nhất vô nhị tôi chỉ gặp một lần cách đây mấy năm. Buổi trưa hôm đó đi làm về mệt tôi thiu thiu ngủ trên cánh võng mắc ngoài vườn tro nơi ngày trước các o hay hội tụ ca hát thì bỗng nghe có tiếng cười nói râm ran. Tôi nhận ra: Tần, Cúc,... đủ cả 10 cô vẫn trẻ trung tuổi 18 đôi mươi như thế. giật thột tôi hỏi: Đã mấy chục năm rồi giờ mới gặp lại các em. Các em có điều chi còn áy náy trong lòng không,? Không biết cô nào tôi cũng không nhớ nữa vì cứ chợp chờn, chỉ nghe một giọng rất thanh và rành rẽ: Bọn em không phàn nàn gì đâu, sống trên cõi tục hay về dưới này cũng vui vẻ vô tư cả thôi, chỉ thương còn nhiều người đã mất mà tình cảnh người nhà trên đó còn khó nhọc quá. chẳng những TNXP mà còn các anh lính tài xế, công binh, pháo cao xạ, nhiều lắm! Mong sao họ cũng được thăm viếng, thắp hương như bọn em. Nếu có làm đền thờ thì thờ chung cho mọi người... Tỉnh dậy, tôi bàng hoàng, mồ hôi đầm đìa lạnh cả sống lưng. Và điều ước nguyện của các cô đến nay đã thực hiện được: Ngôi đền thiêng ở ngã ba Đồng Lộc thờ chung tuốt tuột các liệt sĩ hy sinh ở nơi này đã xây xong. Chắc các cô trong ngày lễ long trọng kỷ niệm 50 năm thắng lợi Đồng Lộc sắp tới sẽ yên lòng...
Hà Tĩnh, ngày 14 tháng 7 năm 2018
Nguyễn Ngọc Phú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét