“cách tân tiền lương” là một trong ba đề án quan yếu được Ban chấp hành Trung ương Đảng đàm đạo tại Hội nghị lần thứ 7 đang diễn ra. Dân trí trân trọng giới thiệu bài viết của Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách lương lậu, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công về vấn đề này:
“Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan yếu, quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên hệ trực tiếp đến các cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường cần lao và đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong lành, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng. Chính sách lương lậu ở nước ta đã trải qua 4 lần cách tân (năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003) nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đề nghị của thực tại, đời sống của đa số người hưởng lương còn khó khăn; lương hướng trong khu vực doanh nghiệp vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thị trường lao động; lương hướng trong khu vực công vẫn còn thấp so với khu vực doanh nghiệp và yêu cầu phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức, nhân viên; việc điều chỉnh lương hướng của người đang làm việc vẫn chưa độc lập với việc điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công; việc thể hóa chủ trương của Đảng về tiền tệ hóa các chế độ ngoài lương (xe ô tô, nhà ở, khám chữa bệnh,...) còn chậm.
thực hành đường lối đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng từng lớp chủ nghĩa, Đảng và quốc gia đã chỉ đạo ban hành nhiều văn bản điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn thiện chính sách lương hướng, hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ lương bổng của khu vực doanh nghiệp theo đề nghị phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí đủ nguồn lực, không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề, bước đầu triển khai xây dựng danh mục vị trí việc làm để làm cơ sở cho việc trả lương... Cụ thể là:
Trong khu vực công, lương bổng từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao đời sống của người hưởng lương. Từ năm 2003 đến nay đã 11 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung từ 210.000 đồng lên 1.300.000 đồng/tháng (tăng thêm 519%, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng kỳ là 208,58%), thu gọn hệ thống bảng lương, rút bớt số bậc và mở mang khoảng cách giữa các bậc lương. Quy định bảng lương chuyên môn theo ngạch, bậc đối với công chức, viên chức; quy định các chức danh lãnh đạo từ Thứ trưởng và tương đương trở xuống thực hiện xếp lương ngạch, bậc và hưởng phụ cấp chức phận lãnh đạo, tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị. Bảng lương của lực lượng vũ trang được quy định riêng biểu thị rõ sự ưu đãi của quốc gia.
thực hành nâng bậc lương đối với cán bộ, công chức, viên chức; xét thăng quân hàm đối với sĩ quan; nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh. Quy định phụ cấp theo 5 nhóm gồm: phụ cấp chức phận lãnh đạo; phụ cấp theo vùng; phụ cấp theo điều kiện lao động, ưu đãi nghề, công việc; phụ cấp theo thời gian công tác; phụ cấp theo cơ quan.
Từng bước đổi mới và tách riêng cơ chế quản lý lương lậu và thu nhập của cơ quan Nhà nước với đơn vị sự nghiệp công lập để tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức và viên chức; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước và chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Đổi mới giải pháp tạo nguồn canh tân lương bổng, gồm 4 nguồn thay cho việc đảm bảo tất tật từ ngân sách trung ương như trước năm 2003.
Chính sách lương bổng trong khu vực doanh nghiệp đã từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của quốc gia. quốc gia giảm dần sự can thiệp hành chính, quản lý lương bổng phê chuẩn quy định mức lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế. Thay đổi cơ chế xác lập mức lương tối thiểu vùng, từ ấn định của quốc gia sang dựa trên kết quả thương lượng 3 bên. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế - tầng lớp, khả năng của doanh nghiệp, từng bước cải thiện đời sống của người lao động. Doanh nghiệp được quyết định chính sách lương theo nguyên tắc chung, bảo đảm hài hòa ích lợi giữa người lao động và người dùng lao động trong điều kiện thị trường cần lao chưa phát triển, năng lực thương thảo của người cần lao và tổ chức đại diện người cần lao tại cơ sở còn hạn chế.
Vai trò của tổ chức công đoàn trong tham dự quyết định chính sách lương bổng của doanh nghiệp từng bước được tăng cường, bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình ban hành chính sách và trả lương cho người lao động. Nhà thi bang lai a1 nước chỉ dẫn, tương trợ nâng cao năng lực, kết nối cung - cầu và cung cấp thông tin để người cần lao và người sử dụng cần lao thỏa thuận. Chính sách lương lậu khu vực doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới hợp với chủ trương của Đảng về sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; tách lương lậu của người quản lý với người lao động, gắn với hiệu quả sản xuất kinh dinh của doanh nghiệp.
Với những cầm cố, rứa của cả hệ thống chính trị, quá trình canh tân chính sách lương của nước ta đã đạt được nhiều kết quả hăng hái nhưng cũng còn nhiều hạn chế, bất cập như: lương lậu khu vực công còn thấp, chưa đảm bảo nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình họ, thiết kế hệ thống bảng lương còn phức tạp, chưa hiệp với vị trí việc làm, chức danh và chức phận lãnh đạo, còn mang tính bình quân, cào bằng, chưa thực thụ tạo được động lực để nâng cao hiệu quả làm việc của người cần lao. Quy định mức lương bằng hệ số nhân với mức lương tối thiểu đã không diễn đạt rõ giá trị thực của lương bổng. Nhiều trường hợp tiền lương của lãnh đạo cấp trên thấp hơn lương lậu của lãnh đạo cấp dưới, không trình diễn.# rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ.
Có quá nhiều loại phụ cấp, đặc biệt là phụ cấp theo nghề và hệ số lương hướng tăng thêm đã phát sinh nhiều bất hợp lý. lương theo chế độ thấp nhưng nhiều trường hợp có các khoản ngoài lương như bổ dưỡng họp, xây dựng đề án, đề tài... chiếm tỷ lệ lớn trong thu nhập của cán bộ, công chức, làm mất vai trò đòn bẩy của lương. Chưa có giải pháp gắn canh tân tiền lương với xếp đặt tổ chức bộ máy, tinh giảm biên chế. Việc đổi mới tổ chức và quản lý, cơ chế tài chính đối với khu vực sự nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu.
Nguồn kinh phí thực hành cải cách lương lậu căn bản vẫn do NSNN đảm bảo (khoảng 98%) và đốn từ ngân sách trung ương (khoảng 68%). Việc điều chỉnh giá, phí dịch vụ công nhiều lĩnh vực còn chậm. Một số địa phương còn dư nguồn cách tân lương nhưng không được chi lương cao hơn. Chưa có cơ chế tiền thưởng gắn với kết quả thực hành nhiệm vụ. Công tác thông tin, thưa, thống kê và cơ sở dữ liệu nhà nước về đối tượng và lương trong khu vực công còn hạn chế.
Đối với khu vực doanh nghiệp, quy định về lương tối thiểu chưa cụ thể, tiêu chí xác định còn nhấn mạnh vào nhu cầu sống tối thiểu; chưa quy định mức lương tối thiểu theo giờ; chức năng bảo vệ người lao động yếu thế còn hạn chế. Việc quy định một số nguyên tắc xây dựng thang, bảng lương còn ảnh hưởng đến quyền tự chủ tiền lương của doanh nghiệp. Chưa đích thực phát huy được vai trò, tác dụng của cơ chế đàm phán. Vi phạm quy định luật pháp về lương bổng còn nhiều; công tác hướng dẫn, tuyên truyền, rà soát, thanh tra, xử lý vi phạm còn hạn chế. Cơ chế quản lý lương bổng đối với DNNN còn nhiều bất cập. lương bổng của người cần lao chưa thực sự gắn với năng suất cần lao; chưa tách bạch giữa lương lậu của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên với Ban giám đốc.
Những hạn chế, bất cập của chính sách lương có căn do khách quan nhưng căn do chủ quan là đẵn, cụ thể như sau: lương lậu là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội; còn tư tưởng bình quân, cào bằng; chưa có nghiên cứu toàn diện về tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ NSNN quá lớn và ngày một tăng, nhất là biên chế viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố dẫn đến tổng quỹ lương và phụ cấp từ NSNN càng ngày càng lớn (khoảng 20% chi NSNN). Việc xác định vị trí việc làm còn chậm, chưa đích thực làm cơ sở để xác định biên chế và trả lương.
Nguồn kinh phí được giao tự chủ trong tổng chi NSNN cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa hợp lý, dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành chính để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức khá lớn và trở thành phổ thông. Việc gắn điều chỉnh lương lậu với điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công, dẫn đến Thay đổi lịch trình của từng chính sách. Chưa phân định rõ mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp, giữa đại diện chủ sở hữu với ban điều hành doanh nghiệp. Công tác thanh tra, soát, giám sát và việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn còn nhiều hạn chế. Công tác chỉ dẫn, tuyên truyền về chính sách lương lậu chưa tốt, chưa tạo được đồng thuận cao.
Việc cách tân chính sách lương hướng thời gian tới có những dịp, tiện lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Chúng ta được kế thừa thành tựu của hơn 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập; nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Nhiều quyết sách quan trọng của Đảng và quốc gia tạo nền móng cho canh tân chính sách lương lậu đã được ban hành, nhất là về hoàn thiện thiết chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đổi mới, xếp đặt tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thế và lực của nền kinh tế đã lớn mạnh hơn; thị trường cần lao ngày càng phát triển; năng suất cần lao, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ngày một tăng, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho cách tân chính sách tiền lương.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn rất lớn; tiềm lực NSNN còn hạn hẹp trong khi nhu cầu chi rất lớn cho đầu tư phát triển, canh tân chính sách lương hướng, đảm bảo an sinh từng lớp, bảo vệ môi trường, đối phó với biến đổi khí hậu và quốc phòng an ninh. Việc cách tân chính sách tiền lương liên hệ đến nhiều cơ chế, chính sách, ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp dân chúng, các đối tượng trong xã hội nên đòi hỏi phải có sự đồng thuận, kiên tâm chính trị cao và cần có thời kì phát huy hiệu quả. Trong khi đó, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khoa học công nghệ biến đổi rất nhanh và cách mệnh công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải tiếp kiến đổi mới, canh tân toàn diện, tổng thể chính sách lương hướng để không là trở lực mà trở thành một dụng cụ quan yếu khuyến khích và cuốn các nguồn lực lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao động phục vụ đích phát triển nhanh và vững bền.
Trước yêu cầu phát triển trong điều kiện những thời cơ, thuận tiện và khó khăn, thách thức đan xen đòi hỏi chúng ta phải có ý kiến đúng đắn, phù hợp với bối cảnh mới. Một là, xác định chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - từng lớp. tiền lương phải là thu nhập chính đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất cần lao và hiệu quả làm việc của người cần lao, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Hai là, cải cách chính sách lương lậu phải đảm bảo tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách lương lậu hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo cần lao và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình ăn nhập với điều kiện phát triển kinh tế - từng lớp và nguồn lực của giang sơn.
Ba là, trong khu vực công, quốc gia trả lương cho cán bộ, công chức, nhân viên và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, hợp với nguồn lực của quốc gia, đảm bảo tương quan hợp lý với lương trên thị trường lao động; thực hành chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng, tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Bốn là, đối với khu vực doanh nghiệp, lương hướng là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo quy luật của thị trường có sự quản lý của Nhà nước. quốc gia quy định tiền lương tối thiểu là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người cần lao yếu thế, song song là một trong những cứ để thỏa thuận lương hướng và điều tiết thị trường cần lao. Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo mối quan hệ cần lao hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Năm là, cải cách chính sách lương bổng là đề nghị khách quan, là nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền từng lớp chủ nghĩa và hoàn thiện thiết chế kinh tế thị trường định hướng từng lớp chủ nghĩa, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, gắn liền và xúc tiến cải cách hành chính, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đây sẽ là những quan điểm then chốt trong thực hiện mục tiêu xây dựng hệ thống chính sách lương bổng nhà nước khoa học, đương đại, sáng tỏ, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế sơn hà, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng tầng lớp chủ nghĩa, tạo động lực phóng thích sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nhân công, sức cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần xây dựng hệ thống chính trị ổn định, thống nhất, liên tục, thông thuộc, tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, hoang toàng; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xúc tiến phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát trên bằng các đích, lộ trình như sau:
- Đối với khu vực công: Từ năm 2018 đến năm 2020, tiếp điều chỉnh tăng mức lương cơ sở theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng và hiệp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề. hoàn tất việc xây dựng và ban hành chế độ lương mới theo nội dung cách tân chính sách lương hướng, gắn với lịch trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế; đổi mới, sắp đặt tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập.
Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, vận dụng chế độ lương hướng mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, nhân viên, lực lượng vũ trang trong sờ soạng hệ thống chính trị từ năm 2021; năm 2021, lương lậu thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp. Định kỳ (2 đến 3 năm) thực hành nâng mức lương hướng thích hợp với chỉ số giá tiêu dùng CPI, mức tăng trưởng kinh tế và khả năng của NSNN. Đến năm 2025, lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2030, lương hướng thấp nhất của cán bộ, công chức, nhân viên bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
- Đối với khu vực doanh nghiệp: Từ năm 2018 đến năm 2020, thực hành điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng ăn nhập tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp và mức sống của người lao động để đến năm 2020 mức lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. thực hành thử nghiệm quản lý cần lao, lương hướng đối với DNNN theo nội dung của Đề án cách tân chính sách lương lậu.
Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, Nhà nước định kỳ điều chỉnh nâng mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương nhà nước và không can thiệp trực tiếp vào chính sách lương của doanh nghiệp từ năm 2021. thực hiện quản lý lao động lương trong DNNN theo phương thức khoán chi phí lương lậu gắn với chỉ tiêu nhiệm vụ sinh sản kinh dinh của doanh nghiệp đến năm 2025 và tiến tới giao khoán chỉ tiêu nhiệm vụ sinh sản kinh doanh của doanh nghiệp vào năm 2030.
Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn chính sách tiền lương ở nước ta từ năm 1960 đến nay; kết quả nghiên cứu khảo sát sâu rộng ở trong nước và ngoài nước với sự tham gia góp ý của nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã làm rõ những nội dung căn bản về cách tân chính sách lương hướng đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người cần lao trong doanh nghiệp ở nước ta trong thời kì tới như sau:
- Đối với khu vực công: Thiết kế cơ cấu tiền lương và tiền thưởng mới (gồm: Mức lương căn bản, các khoản phụ cấp; tiền thưởng). Xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới. Thay thế hệ thống bảng lương hiện hành bằng hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức phận lãnh đạo; chuyển xếp lương cũ sang lương mới đảm bảo không thấp hơn lương bổng hiện hưởng (gồm: Xây dựng 01 bảng lương chức phận áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên giữ chức phận lãnh đạo trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã. Xây dựng 01 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp nhân viên vận dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp nhân viên có nhiều bậc lương như hiện giờ). Xây dựng 03 bảng lương mới đối với lực lượng vũ trang. Xác định các nguyên tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới. sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành. Hoàn thiện cơ chế quản lý lương bổng và thu nhập.
- Đối với người cần lao trong các doanh nghiệp: tiếp chuyện hoàn thiện chính sách về lương tối thiểu vùng theo tháng, theo giờ nhằm nâng cao độ phủ của lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của thị trường cần lao; bảo đảm mức sống tối thiểu của người cần lao và gia đình họ, đặt trong mối quan hệ với các nhân tố của thị trường cần lao và phát triển kinh tế - từng lớp. Hoàn thiện cơ chế quản lý lương bổng và thu nhập; về chính sách lương lậu đối với DNNN.
Từ những nội dung cơ bản về canh tân chính sách lương hướng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp nêu trên, trong thời gian tới, chúng ta cần khai triển đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp sau:
1 - Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về canh tân chính sách lương đồng bộ với đổi mới xếp đặt tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2 - tích cực xây dựng hệ thống vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, nhân viên và lực lượng vũ trang. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về vị trí việc làm và các tiêu chí đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, nhân viên trên cơ sở tổng kết thực hiện quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật viên chức và tham khảo kinh nghiệm của quốc tế.
3 - Xây dựng và ban hành chế độ lương mới để áp dụng hợp nhất từ năm 2021. thực hành Đảng hợp nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý chính sách lương bổng của toàn hệ thống chính trị, trực tiếp là Bộ Chính trị quyết định và giao cơ quan chức năng ban hành văn bản quy định chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ Trung ương đến cấp xã và người cần lao trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng của Đảng và quốc gia căn cứ nội dung của Đề án để xây dựng và ban hành văn bản quy định chế độ lương mới khi hướng dẫn thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới bảo đảm không thấp hơn lương lậu hiện hưởng.
4 - Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách tạo nguồn lực cho cách tân chính sách lương bổng, gồm: (1) thực hiện có hiệu quả các quyết nghị của Trung ương về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, về phát triển kinh tế tư nhân, về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; về quản lý nợ công; (2) Cơ cấu lại thu NSNN bảo đảm tỷ lệ huy động vào NSNN ở mức phù hợp; (3) Hằng năm, ưu tiên dành khoảng 50% tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hành của ngân sách địa phương, khoảng 40% tăng thu ngân sách trung ương cho canh tân chính sách lương bổng; (4) tiếp kiến thực hiện hà tiện 10% dự toán chi luôn tăng thêm hằng năm; (5) Nguồn thực hiện cách tân chính sách lương lậu còn dư hằng năm phải tiếp chuyện sử dụng để thực hành cách tân chính sách tiền lương cho các năm sau, không sử dụng vào mục đích khác khi không được cấp có thẩm quyền cho phép; (6) Cơ cấu lại chi NSNN gắn với cách tân lương hướng, cơ cấu lại chi một số lĩnh vực sự nghiệp công gắn với việc điều chỉnh giá, phí đối với các dịch vụ sự nghiệp công. Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức, nhân viên có cội nguồn từ NSNN. thực hành khoán quỹ lương cho các cơ quan, đơn vị; khoán các chế độ ngoài lương (xe ô tô, nhà ở, khám chữa bệnh...); (7) Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công theo hướng quốc gia quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính đủ các tổn phí đối với các loại dịch vụ căn bản, cần yếu, song song gắn với chính sách hỗ trợ hạp cho người nghèo, đối tượng chính sách.
5 - khai triển có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII một số vấn đề về nối đổi mới, xếp đặt tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và đấu đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập gắn liền với lịch trình canh tân lương hướng.
6 - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý quốc gia về lương bổng; sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, cần lao, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và pháp luật có liên quan đến chính sách lương bổng theo hướng đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp duyệt việc thiết lập cơ chế đối thoại, thương thuyết và thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ cần lao.
7- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của dân chúng, chiến trận đất nước và các đoàn thể chính trị - từng lớp trong việc thực hành cách tân chính sách lương đồng bộ với sắp đặt tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
canh tân chính sách lương bổng là vấn đề chính trị, kinh tế, từng lớp can hệ, phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều năm đến các lĩnh vực kinh tế - tầng lớp của tổ quốc. Để Hoàn thành được các đích đã đề ra cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, trong đó giải pháp thứ 4 và thứ 5 mang tính đột phá để thực hiện chiến thắng mục tiêu cách tân chính sách tiền lương nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ; tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người cần lao, góp phần đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống chính trị ổn định, tinh gọn, trong lành, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng; thực hành tiến bộ, công bằng tầng lớp, xúc tiến, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế - tầng lớp bền vững”.
Vương Đình Huệ
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ,
Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về canh tân
chính sách lương hướng, bảo hiểm tầng lớp và ưu đãi người có công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét