Nếu thị trấn Sặt sầm uất, phố xá nhộn nhịp bao lăm, làng Châu Khê lại êm ả bấy nhiêu. Người Châu Khê lắm kẻ sĩ, hiền tài lại khéo tay, nổi tiếng Thăng Long thành ở nghề khảm bạc, luyện vàng. Chính do vậy mà họ lập ra phố Hàng Bạc từ cách đây hơn 500 năm...
Lễ hội làng nghề Châu Khê 2018.
Rời làng lập phố
Nghề “Đúc tiền” bạc nén đến với dân Châu Khê như một sự ngẫu nhiên vào đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Thời kỳ này, bạc nén vẫn được quy định làm tiền tệ tiêu dùng trong đời sống, giao lưu thương mại với các nước hàng xóm. Cơ sở đúc bạc nén bao giờ cũng trực thuộc các triều vua và bị quản lý chặt đẹp. Làng Châu Khê có một vị quan lớn - Thượng thư Bộ Lại Lưu Xuân Tín được phân công đảm nhận công việc đúc bạc làm kho bạc trong triều. Thế là ông bí ẩn gọi giai đinh đáng tin trong làng lên Kinh thành lập xưởng đúc. Đầu tiên, ông cho dân mua đất ở phường Đông Các, huyện Thọ Xương xây lò luyện bạc, đúc tiền. Cơ sở trước hết đó còn được lưu dấu, định vị ở chính số nhà 58 phố Hàng Bạc ngày nay. Từ đó, dân làng Châu Khê lên ngày một đông, hình thành Phường Giáp như gốc quê và dựng hẳn Đình thờ vọng đức Thành hoàng làng. Đó chính là “Châu Khê Vọng Sở”. Nhà nhà dựng lên hai hàng phố, hình thành những cơ sở gom bạc, thảo luận bạc vụn lấy bạc nén. Có thể coi đây là chợ mua bán vàng bạc Đầu tiên ở đế đô.
Vài trăm năm sau, nghề đúc bạc nén bị chuyển vào Huế, phần lớn thợ đúc bạc Châu Khê ở lại. Họ nhanh chóng chuyển sang làm mỹ nghệ kim hoàn. Đầu tiên chỉ làm các đồ dùng gia đình như xà tích, ống vôi rồi mới đến vòng nhẫn, mặt đá. thỉnh thoảng nạm bạc những vật dụng gia bảo như ấm trà, ống điếu, tẩu thuốc, khay đĩa cổ. Dần dần, họ mới làm nhẫn, dây chuyền, lắc, vòng và những đồ tinh xảo hơn… Làm ăn khá thịnh vượng, người dân Châu Khê còn phải gọi thêm cả các thợ chế tác vàng bạc ở Định Công, ở Thanh Trì xưa, cùng người ở Đồng Xâm, có nghề chạm bạc ở thăng bình lên cùng làm để đáp ứng đề nghị của thị trường. Phố Hàng Bạc hình thành thêm nghề làm trang sức từ ngày đó.
Tên phố Hàng Bạc có thời đổi theo tiếng Pháp là “Rue de changeurs” (Phố đổi bạc). Khi chính thức dùng chữ Quốc ngữ, phố được đổi lại là phố Hàng Bạc cho đến nay. Vào thời gian này, nghề chế tạo vàng bạc phất lên, phố Hàng Bạc là nơi hội tụ mua bán của người Pháp và những người Việt ấm no, lắm tiền nhiều của. Những người thợ Châu Khê cũng ăn nên làm ra. Họ về làng hay tỏa đi các thành phố khác làm ăn. Không ít đứa ở làng còn xây dựng cơ sở chế tạo trang sức để cung cấp lên phố. Đó là những lò đúc bạc chuyên làm đồ mỹ nghệ và đưa hàng đi các nơi bán và cũng là nơi thu mua vật liệu khá rộn rịp. Hầu hết những chủ cửa hàng trên phố Hàng Bạc hay các nơi vẫn giữ cơ sở ở Châu Khê nên nghề chạm bạc và chế tác trang sức của làng ngày một phát triển. Xưa làng vẫn còn lưu truyền hình ảnh và thời vận tinh ranh ở làng như: “ Tại phố, tại hương chung một quê. Châu Khê - Hàng Bạc ngược xuôi về. Ân sâu - hương tỏa công ơn Tổ. Mỹ nghệ kim hoàn khởi sắc quê ”. Đó chính là lời văn tế trong mỗi kỳ lễ hội, hoài tưởng đến Tổ nghề và quan Thượng thư Lưu Xuân Tín xưa.
Người thợ chạm bạc ở Châu Khê.
“Những người muôn năm cũ…”
Chắc hẳn khi nghe đến câu thơ “ Những người muôn năm cũ ”, ai cũng có thể đọc tiếp câu “ Hồn ở đâu hiện ” trong câu kết của bài thơ “Ông đồ” của cố thi sĩ Vũ Đình Liên. Ông là người con của làng Châu Khê. Tác phẩm của ông đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường và là niềm tự hào của dân làng Châu Khê. Ngoài cái tiếng rằng làng mỹ nghệ kim hoàn, gắn với cái tên Châu Khê thì giờ đây, người ta thường nhắc đến “Những người muôn năm cũ” ấy. Đó là những tao nhân của làng. Châu Khê không chỉ có nhà thơ Vũ Đình Liên mà còn có thi sĩ liệt sĩ Hoàng Lộc nức danh với bài thơ “Viếng bạn” (tác phẩm cũng được đưa vào sách giáo khoa); Và còn đó là nhà viết kịch lẫy lừng Lộng Chương. Nếu thi sĩ Hoàng Lộc vừa là nhà báo, nhà thơ quân đội đã hy sinh trong cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc thì sáng tác của nhà viết kịch Lộng Chương lại nhấp nhánh ánh bạc của làng quê. Nhà viết kịch Lộng Chương sinh năm 1918 ở Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, Hải Dương. Ông theo gia đình lên sinh sống ở phố Hàng Bạc. Gia đình ông làm nghề kim hoàn đã mấy đời. Ông được gia đình cho ăn học đến nơi đến chốn, tốt nghiệp ngành hóa chất (1939) và đi làm tại Sở Tổng Thanh tra Nông súc ở Hà Nội. Ông sớm hoạt động sân khấu và đi theo kháng chiến từ 1945. Tuy ông không theo nghề của gia đình nhưng đề tài vàng bạc đã nhập vào ông khi viết vở kịch “Quẫn”. Đó chính là những câu chuyện bi hài về những gia đình no ấm vương giả khi đứng trước chính sách công tư hợp
doanh của Nhà nước ta. Thùng vàng đã được che giấu để muốn tẩu tán nhưng không thành tạo nên những hoàn cảnh cười ra nước mắt của gia đình tư sản Đại Cát...
Phố Hàng Bạc gắn với bao câu chuyện trong 36 phố cổ Hà thành qua các điệu hát xẩm chợ, xẩm tàu điện. Không ai không nhớ đến câu: “ Rủ nhau chơi khắp Long thành. Ba mươi sáu phố ràng ràng chẳng sai. Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai. Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay. Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày… ”. Còn nữa, có chuyện nhà văn lỗi lạc Vũ Trọng Phụng đã lấy vợ ở phố Hàng Bạc - một con phố của những người giàu có, sang trọng nhưng vợ chồng ông vẫn nghèo túng và phải thuê nhà ở Hàng Bạc. Hàng ngày, ông đi xâm nhập thực tế rồi về cắm cúi cả đêm viết những thiên phóng sự nức danh. Từ phố Hàng Bạc, ông cho ra đời những cuốn tiểu thuyết từng lớp như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”… có nhẽ sự tương phản về cuộc sống đói nghèo bệnh tật ở ngay phố vàng bạc đã phần nào ẩn sâu trong những khám phá hiện thực của các nhợt, thói hư tật xấu của từng lớp như “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Cạm bẫy người”, “Làm đĩ”, “Cơm thầy cơm cô”…
Phố Hàng Bạc xưa và nay.
Còn đó những mái ngói Hà Nội xưa
Nói đến phố Hàng Bạc không những là nơi hội tụ của những tinh hoa làng nghề kim hoàn mà còn là con phố còn giữ được nét “Hà Nội” nhất trong 36 phố xá xưa. Nó nhỏ và có vẻ hơi hẹp hơn các phố bên cạnh một tí nhưng lại nườm nượp sầm uất từ sáng sớm cho đến tối khuya. Phố còn hấp dẫn các khách du lịch từ khắp nơi đổ về. Họ không chỉ tò mò về đồ mỹ nghệ kim hoàn mà ai cũng thích thú ngắm con phố, căn nhà cổ với hình thù xinh gọn, hình ống kéo dài sâu hút. Người ta còn ví đây là những ngôi nhà chồng diêm, có mái ngói nghiêng ra mặt phố, đôi chỗ còn có mái tranh vẩy thêm ra hè. Gợi cảm ở chỗ bờ nóc hai mái hơi cong lên và gờ hàng trang hoàng gạch thô nhám… Đó chính là sự khác biệt của phố Hàng Bạc với các phố khác.
Hơn nữa, nếu du khách mê muội với vẻ đẹp xưa cũ của những ngôi nhà chồng diêm thì lại dâng trào xúc cảm với nét rêu phong, yên lặng của đình Kim Ngân (số nhà 42), Trương Thị (số nhà 50) hay “Trang đúc bạc nén” cổ (số nhà 58) của người Châu Khê xưa. Ấy là chưa nói đến người Châu Khê còn mua cả Nội Miếu ở thôn Hài Tượng (30 phố Hàng Giầy) để làm đền thờ Vọng (Châu Khê vọng sở cổ từ). Màu sắc văn hóa Châu Khê làm nên hồn cốt của phố Hàng Bạc từ con người đến cõi tâm linh. Vậy nên con người ở đây có nét riêng với cái danh thơm “Gái Hàng Bạc” xinh đẹp nhu mỳ, duyên dáng. Họ chăm chỉ, trợ giúp chồng con trong công việc làm ăn, vượt qua những thời đoạn khó khăn nhất về kinh tế. Những người thợ hay nghệ nhân chế tác vàng bạc lâu đời ở đây luôn giữ chữ tín với sự trung thực, chất phác vốn có tự ở làng quê Châu Khê. Đó là cái đức của làng, xoành xoạch khắc ghi trong trái tim họ, trở thành nguyên tắc sống còn của người làm nghề. Hiện ở Hà Nội, hội tụ ở phố Hàng Bạc, một số tản mát trên các phố và bãi Phúc Tân, sờ soạng có đến gần 150 cửa hàng chế tạo vàng bạc của dân Châu Khê. Cho dù bao đời đã trải qua hàng trăm năm trong mỗi gia thi bằng lái xe máy đình nhưng ai ai cũng nhớ tới lời tiên sư cha nhắn nhủ cho con cháu: “ Sầm uất Đông Đô một phố nghề. rộn rã Hà Nội phố và quê. Châu Khê truyền thống bảo tồn nghiệp. Hàng Bạc tiềm năng giữ lấy nghề ”.
Bài và ảnh: Cảnh Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét